I. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – NỘI DUNG CỐT LÕI, XUYÊN SUỐT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Giải phóng dân tộc - Con đường đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội
a. Chủ nghĩa yêu nước là động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh tìm kiếm con đường giành độc lập cho dân tộc và đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tôi luôn luôn là một người yêu nước, tranh đấu cho độc lập và thống nhất thật sự của Tổ quốc tôi”[1]. Mặc dù thế giới luôn công nhận Người là lãnh tụ cộng sản kiệt xuất có tầm ảnh hưởng to lớn trong thế kỷ XX nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chỉ luôn giản dị nhận mình là một người yêu nước. Ý chí độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là điểm xuất phát của tư tưởng Hồ Chí Minh. Được nuôi dưỡng bởi những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Chính lòng yêu nước là yếu tố thúc đẩy Hồ Chí Minh rời Tổ quốc ra đi tìm đường giải phóng dân tộc vào tháng 6-1911 để rồi 30 năm sau, Người mới trở về. 30 năm là một chặng đường dài với biết bao khó khăn, vất vả; ghi nhận sự trưởng thành của một con người về tuổi đời, về nhận thức, tư tưởng; từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản trung kiên đầy năng lực và sáng tạo.
- Truyền thống gia đình, quê hương đã hun đúc nên tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thuở nhỏ, Hồ Chí Minh có tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành; Người sinh ngày 19-5-1890, trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân. Thân phụ của Người – Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – là một nhà Nho cấp tiến, có tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Tư tưởng thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng đã có ảnh hưởng khá sâu sắc đến sự hình thành lòng yêu nước của Nguyễn Tất Thành. Có thể thấy, những tư tưởng mà Nguyễn Tất Thành học từ cha mình sau này đã được Người nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình.
Vùng đất Nghệ Tĩnh, quê hương của Hồ Chí Minh là một mảnh đất giàu truyền thống yêu nước và ý chí chống giặc ngoại xâm. Nơi đây đã sản sinh ra nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như: Mai Thúc Loan, Đặng Dung, Nguyễn Biểu, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu… và biết bao con người ưu tú, anh dũng khác của Việt Nam. Mảnh đất Kim Liên nơi sinh ra Người cũng đã thấm máu của bao anh hùng liệt sĩ chống Pháp như Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến… Cả chị và anh của Người cũng đều tham gia các phong trào yêu nước chống Pháp, bị bắt giam và lưu đày hàng chục năm.
Từ thuở thiếu thời, cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương. Những ngày tháng theo cha vào Huế, Nguyễn Tất Thành đã tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của quan lại phong kiến. Tất cả đã tác động mạnh vào con người Nguyễn Tất Thành, thôi thúc Anh phải ra đi tìm một con đường mới để cứu dân, cứu nước. Truyền thống quê hương, gia đình đã trang bị cho Anh lòng yêu nước, thương nòi. Tuy nhiên, chủ nghĩa yêu nước đó chỉ dừng lại ở cảm tính, không tránh khỏi hạn chế về mục tiêu đấu tranh, về phương hướng phát triển khi xã hội đang biến đổi mạnh mẽ.
- Các con đường cứu nước theo hệ tư tưởng khác nhau thất bại, từ đó nảy sinh yêu cầu tìm con đường cứu nước mới, đáp ứng yêu cầu của dân tộc
Từ những năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực… ở Nam Bộ; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng… ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích… ở miền Bắc. Các cuộc khởi nghĩa được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước và chí căm thù giặc sục sôi, song trước sau đều lần lượt thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng. Lãnh đạo các phong trào là các sĩ phu văn thân mang ý thức hệ phong kiến, còn mang nặng tư tưởng tôn quân, chưa tin vào lực lượng của nhân dân nên cũng chưa thật tin vào thắng lợi cuối cùng. Điều đó cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam phân hóa rõ rệt. Các tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của giai cấp tư bản bắt đầu xuất hiện. Cùng lúc đó, các “tân thư”, “tân văn”, “tân báo” và ảnh hưởng cuộc vận động cải cách của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi tràn vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội … Tuy nhiên, các phong trào đều đi đến thất bại do chưa lôi cuốn được các tầng lớp nhân dân và chủ yếu các phong trào đó đều do các sĩ phu phong kiến cựu học truyền bá và dẫn dắt, nên không tránh khỏi hạn chế và thất bại. Bên cạnh đó, trong xã hội Việt Nam thời kỳ này xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Trong đó nổi lên mâu thuẫn bao trùm là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và bè lũ Phong kiến tay sai.
Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của những người đi trước. Người nhận ra rằng không thể cứu nước theo con đường của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám … Người thấy Đông Du chẳng khác gì “Đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; tư tưởng “ỷ Pháp cầu tiến bộ” chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Sự thất bại của các con đường cứu nước thời kỳ này đã chỉ cho Nguyễn Tất Thành thấy phải tìm một con đường mới giành lại tự do cho dân tộc. Con đường đó trước hết phải giải quyết tốt mâu thuẫn về dân tộc, đem lại độc lập cho dân tộc và sau đó là cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Người đã nhận thức rõ nguồn gốc của những đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại “chính quốc”, ở nước đế quốc đang thống trị dân tộc mình. Rõ ràng, nhờ tinh thần yêu nước mãnh liệt cùng với trí tuệ sáng suốt, Nguyễn Tất Thành đã có thể vượt qua tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu nước cùng thời. Tuy nhiên, thời đại của Nguyễn Tất Thành là một thời đại đầy biến động, nếu chủ nghĩa yêu nước không được đổi mới mà chỉ dừng lại ở một tình cảm chung nhất với các phạm trù dân tộc, ái quốc quen thuộc, mà không được đổi mới, nâng cao và có một cơ sở xã hội cụ thể thì sẽ đi vào bế tắc, không thể thành công giải phóng dân tộc được.
- Quá trình Hồ Chí Minh đến với Lênin và Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) sắp kết thúc, Tổng thống Mỹ Uynxơn đưa ra Chương trình 14 điểm còn được gọi là “Chủ nghĩa Uynxơn”. Trong đó, Uynxơn đã đề cập đến việc “Giải quyết một cách công bằng những vấn đề thuộc địa, chiếu cố đến các dân tộc bản xứ…”. Trong bối cảnh lịch sử ấy và với nỗi khao khát độc lập tự do cho dân tộc mình, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước đang sống và hoạt động ở Pari, gửi đến đoàn đại biểu dự Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Bản Yêu sách tuy đã gây được tiếng vang nhưng lại không hề được các nước đế quốc đếm xỉa đến đã cho Nguyễn Ái Quốc thấy bản chất thật sự của chủ nghĩa đế quốc: “Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm và những tuyên ngôn hoa mỹ về “tự do, bình đẳng, bác ái” “quyền con người cơ bản” chỉ là những chiêu trò mà đế quốc vẽ ra để lừa bịp quần chúng nhân dân lao động ở chính quốc cũng như các dân tộc thuộc địa bị áp bức.
Sự kiện trên đã tác động mạnh mẽ vào nhận thức của Nguyễn Ái Quốc về chủ nghĩa đế quốc. Đi qua nhiều quốc gia, bôn ba qua nhiều châu lục, Nguyễn Ái Quốc đã chứng kiến và hiểu rõ hơn tình cảnh của những dân tộc bị mất độc lập. Người thấy rõ được sự khác biệt giữa lời nói và việc làm của những kẻ đại diện cho các nước tư bản đế quốc. Từ thực tiễn hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận: Chủ nghĩa tư bản, đế quốc ở đâu cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng bị áp bức, bóc lột, đầy đọa, “trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bọc lột và giống người bị bóc lột”[2]
Từ những nhận thức thực tiễn đó, năm 1920 khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’Humanité, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ở Luận cương những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi mình đang nung nấu và tìm tòi đó chính là mối quan hệ gắn bó giữa giải phóng giai cấp vô sản với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Người đã tìm thấy “con đường giải phóng chúng ta”.
Sau này, nói về cảm tưởng khi đọc Luận cương, Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.”[3]
Đây là sự chuyển biến mạnh mẽ trong con người Nguyễn Ái Quốc và đại hội Tua (12/1920) đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn chặt công cuộc giải phóng dân tộc mình với chủ nghĩa xã hội.
Người đã nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[4].
b. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Trên đường đi tìm chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với các tư tưởng tiến bộ về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp 1791. Từ đó, Người đã khái quát thành chân lý về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do”[5].
Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Chánh cương vắn tắt, Người đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng đó là:
“a, Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b, Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”[6]
Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, Người đã chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”[7]. Người chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, ban hành Mười chính sách của Việt Minh trong đó mục tiêu đầu tiên là: “Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”. Câu nói bất hủ của Người: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”[8] đã thể hiện ý chí đấu tranh mạnh mẽ, kiên quyết giành độc lập, tự do của dân tộc ta.
Cách mạng tháng 8 thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt toàn dân tộc long trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[9]. Nhân dân ta chỉ muốn hòa bình, song “thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”[10], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[11]
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ước nguyện độc lập, tự do của nhân dân ta vẫn chưa được thực hiện khi mà đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam. Khát vọng độc lập, tự do của cả dân tộc ta được gói gọn trong chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là lý do chiến đấu và là nguồn sức mạnh của của cả dân tộc. Cùng với đó, chân lý cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì thế, Hồ Chí Minh không chỉ là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
c. Thực tiễn dân tộc, mục tiêu độc lập dân tộc là căn cứ để Hồ Chí Minh củng cố, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
Từ việc nhận định Mác đã xây dựng học thuyết trên cơ sở lịch sử châu Âu, tức là chưa phải toàn nhân loại, Hồ Chí Minh đã yêu cầu bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông, mà theo Người đó chính là chủ nghĩa dân tộc. Người đã nói: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “Cơ sở lịch sử” của Chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”[12].
Từ thực tiễn dân tộc và mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã có rất nhiều luận điểm sáng tạo góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác-Lênin. Những luận điểm ấy rất phong phú và bao quát trên nhiều lĩnh vực, ở đây chỉ nêu lên những luận điểm quan trọng xuất phát từ thực tiễn và mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc.
+ “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”[13].
Trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Người đã có nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự vận động và phát triển của xã hội. Người đã phân tích sự tác động của chiến tranh đã làm thay đổi chủ nghĩa dân tộc và đã kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản sứ nhân danh Quốc tế Cộng sản …khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi … nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[14]. Việc phát hiện động lực chủ nghĩa dân tộc là một sáng tạo lớn và rất dũng cảm của Nguyễn Ái Quốc trong bối cảnh lúc bấy giờ, bởi những tư tưởng “tả khuynh” trong Quốc tế Cộng sản. Mãi đến năm 1949, tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XIX, Xtalin mới nêu ra luận điểm: “… giai cấp tư sản đã vứt bỏ ngọn cờ dân tộc, giai cấp vô sản phải giương cao ngọn cờ dân tộc mà tiến lên…”
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Theo Nguyễn Ái Quốc, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể “chủ động đứng lên, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Luận điểm sáng tạo đó của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất quan trọng. Đó là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta tin tưởng và quyết tâm tổ chức lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên làm cách mạng để tự giải phóng khỏi ách đế quốc xâm lược và khỏi nghèo nàn lạc hậu. Đó cũng chính là cơ sở của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng mới.
+ Luận điểm về sự thành lập chính đảng của giai cấp công nhân ở một nước thuộc địa, đại bộ phận dân cư là nông dân.
Nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài 30 năm hoạt động của Đảng. Trong đó, Người chỉ rõ Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới sự thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”[15].Giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì phải thành lập được chính đảng của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, ở một nước nông nghiệp như Việt Nam, giai cấp công nhân còn trẻ, ra đời chủ yếu qua hai lần thực dân Pháp khai thác thuộc địa. Phong trào công nhân mới phát triển từ những năm 20 của thế kỷ XX. Trong một nước thuộc địa, kinh tế lạc hậu như vậy, phong trào yêu nước vẫn là phong trào rộng lớn nhất, lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân với nhiều giai cấp: Giai cấp tiểu tư sản, tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc … Từ điều kiện đất nước như vậy, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin về sự thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời dựa trên sự kết hợp của ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Phong trào yêu nước là một trong ba yếu tố tạo nên sự thành lập Đảng vì những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, phong trào yêu nước có vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai,phong trào công nhân và phong trào yêu nước kết hợp được bởi có chung một mục tiêu.
Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân.
Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
+ Luận điểm về chiến lược đại đoàn kết và chính sách Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhất quán cả trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại đoàn kết là một trong những chính sách dân tộc và Mặt trận Dân tộc Thống nhất là lực lượng tập hợp sức mạnh của cả dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước. Sự hình thành khối đại đoàn kết dân tộc là một tất yếu và sự ra đời tổ chức Mặt trận cũng là một tất yếu khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của Mặt trận Dân tộc thống nhất, trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, do đặc điểm mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp ở nước ta mà Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam có sứ mạng cao cả đoàn kết hết thảy mọi người Việt Nam yêu nước và tiến bộ đấu tranh cho quyền lợi tối cao của dân tộc.
Tại Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt (3-1951), Hồ Chí Minh đã tổng kết kinh nghiệm về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc Thống nhất thành khẩu hiệu nổi tiếng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.”
Đây chính là chiến lược cách mạng, là tư tưởng cơ bản mà Người đã tổng kết và rút ra từ truyền thống đấu tranh anh dũng đầy hy sinh gian khổ và rực rỡ chiến công của dân tộc ta, nó đã trở thành chân lý bền vững của dân tộc ta về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
2. Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố, bảo vệ và phát triển độc lập dân tộc
Cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ với tư cách một anh hùng giải phóng dân tộc, người khởi xướng và lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công mà còn ở những đóng góp đầy tính sáng tạo trong việc xác định con đường củng cố, đảm bảo và phát triển độc lập dân tộc, đó chính là con đường chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Hồ Chí Minh là một lý tưởng giải phóng, một chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời là một chế độ xã hội mới trong đó không còn áp bức, bóc lột, bất công.
Người viết: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc”[16]. Chủ nghĩa xã hội là “không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”[17]. Đồng thời với đó, Người cũng nhấn mạnh: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”[18].
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội không chỉ là ước mơ, lý tưởng mà cần được thể hiện cụ thể từng bước ngay ở nhiệm vụ trước mắt. Vấn đề sáng tạo lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuất phát từ thực tiễn đất nước, Người đã đề ra mục tiêu trước mắt của chủ nghĩa xã hội một cách thiết thực, cụ thể đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đã chỉ ra những đặc trưng bản chất tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tập trung ở những điểm sau:
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội có chế độ chính trị dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật
+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức
Kế thừa những quan niệm từ Cương lĩnh năm 1991, đến nay chúng ta có thể khái quát xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”[19]
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Ở đây, mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt với mục tiêu lâu dài, là mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình cách mạng. Cụ thể, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
- Chủ nghĩa xã hội tạo ra những điều kiện vững chắc để củng cố và bảo vệ độc lập dân tộc, bảo đảm cho độc lập dân tộc là độc lập hoàn toàn.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[20]. Độc lập – Tự do – Hạnh phúc đã trở thành những giá trị mà cách mạng Việt Nam hướng đến. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội đáp ứng khát vọng tự do, hạnh phúc của quần chúng nhân dân. Gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội tạo ra động lực to lớn cho cách mạng giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.
II. GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1. Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến, góp phần bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác-Lênin
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa chính là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm lý luận của Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và thực tiễn thắng lợi ở Việt Nam là nguồn động viên tinh thần to lớn và một sức mạnh động lực về tư tưởng và giải pháp cách mạng cho các quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc mình. “Thế giới ngày nay có thể rút ra được một bài học trong đường lối của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Đấy là điều mà các đảng chính trị và các lãnh tụ đảng có thể học hỏi”[21].
Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành di sản của nhân loại. Đúng như Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã tôn vinh Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn của thế giới. Nhiều lãnh tụ cách mạng, nhiều nhà nghiên cứu khoa học trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có những đánh giá, nhận xét hết sức đúng đắn và sâu sắc về cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dưới thời đại Hồ Chí Minh.
Tiến sĩ M.AT-Mét – Giám đốc UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương – đã ca ngợi Hồ Chí Minh tại hội thảo Quốc tế Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn: “Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này.”
Đồng chí Phiđen Cátxtơrô – Chủ tịch Đảng Cộng sản Cuba – phát biểu: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trong chủ nghĩa Mác-Lênin bài học và con đường tìm ra giải pháp cho tất cả các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân áp bức và bóc lột. Đồng chí Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách thiên tài cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và cuộc đấu tranh vì quyền lợi của quần chúng bị bọn phong kiến và giai cấp áp bức, bóc lột. Người đã tìm ra con đường kết hợp giữa tư tưởng yêu nước của các dân tộc với sự cần thiết phải giải thoát họ khỏi sự bóc lột xã hội. Sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng xã hội là hai điều then chốt trong học thuyết của Người”[22]
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh – Việt Nam – Asia, Phôn Muysơ đã viết: “Hồ Chí Minh là người mang tính chất Á Đông nhất, nhưng cũng là người cởi mở nhất với tư tưởng phương Tây. Ở đây, nổi bật lên trên một bối cảnh được dò xét đến tận đáy thẳm sâu, hình ảnh của một nhà kiến thiết lớn nhất của thời đại ngày nay … một nhân vật đã đem trở lại cho lục địa này niềm kiêu hãnh và sự hùng mạnh của nó”[23]
Đavie Hambơxtơn trong tác phẩm của mình lấy tên là Hồ có viết: “Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này – hơi giống Găngđi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam. Có lẽ hơn bất kỳ một người nào khác của thời kỳ này, đối với dân tộc của ông và đối với cả thế giới, ông là hiện thân của một cuộc cách mạng”
Cùng với thời gian, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc vẫn chứng tỏ được sức sống trường tồn vì những chân lý của nó “Năm tháng sẽ qua đi, nhưng toàn nhân loại tiến bộ nhớ mãi tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh”[24]
2. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và từ đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trở thành mục tiêu lý tưởng của Đảng và cách mạng Việt Nam, là nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
- Thời kỳ 1930 – 1945: Thời kỳ hoàn chỉnh cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ này đánh dấu thắng lợi đầu tiên của cách mạng vô sản
+ Xác định tính chất của cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và nhân dân lao động
+ Hồ Chí Minh đã vạch ra hai giai đoạn phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản
+ Hồ Chí Minh cũng xác định cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và có mối quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản ở chính quốc. Cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước giai cấp vô sản ở chính quốc.
+ Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi là thắng lợi vẻ vang của cách mạng giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo. Mở ra thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Thời kỳ 1945 – 1954: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh được thể hiện trong việc giữ vững và củng cố chính quyền non trẻ, xây dựng những cơ sở vật chất đầu tiên cho chủ nghĩa xã hội.
+ Cách mạng nước ta thời kỳ này nằm trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợ tóc, đối mặt với “thù trong, giặc ngoài”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì với mục tiêu độc lập dân tộc, giữ vừng thành quả cách mạng. Tập hợp sức mạnh cả dân tộc, đoàn kết toàn dân, thực hiện đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; “kháng chiến đi đôi với kiến quốc”; “kháng chiến văn hóa, văn hóa kháng chiến”
+ Đây là thời kỳ, Hồ Chí Minh và Đảng ta hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Thắng lợi của chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh dấu mốc son cho sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, thể hiện rõ quyết tâm giữ độc lập, tự do của toàn dân tộc ta.
- Thời kỳ 1954 – 1975: Thời kỳ tiến hành cách mạng ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giải quyết đúng đắn thành công mối quan hệ giữa hai cuộc cách mạng ở hai miền Nam – Bắc. Từ đó xây dựng một hệ thống quan điểm tương đối hoàn thiện, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Thời kỳ 1975 đến nay: Thời kỳ thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ của toàn Đảng, toàn dân. Đổi mới phải thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, đồng thời phải kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
+ Mục tiêu độc lập dân tộc phải được xem xét toàn diện từ vấn đề lãnh thổ đến vấn đề an ninh quốc gia, vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, lối sống, đạo đức xã hội. Đây là vấn đề quan trọng, nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc phải được hiểu đúng đắn, đó là độc lập thực sự, độc lập về mọi mặt; không chịu sự chi phối của bất kỳ một tổ chức hoặc quốc gia nào.
+ Tiến lên chủ nghĩa xã hội được khẳng định là tất yếu của toàn Đảng, toàn dân ta. Có tiến lên chủ nghĩa xã hội mới bảo vệ được thành quả của cách mạng, mới củng cố và giữ gìn được độc lập dân tộc. Lấy mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để đoàn kết toàn dân tộc.
Rõ ràng, cùng với thời gian, tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn có giá trị trường tồn, soi sáng cho con đường cách mạng của dân tộc ta. Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Thế giới còn đổi thay, nhưng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi”[25].
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong Công an nhân dân
Kiên định với tư tưởng độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân cần quán triệt, bảo vệ tốt thành quả độc lập, tự do của Tổ quốc; Bảo vệ tốt an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Quán triệt tốt mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới theo Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương (Khóa XI): “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc … bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa…” . Độc lập dân tộc ở đây cần được hiểu là độc lập thực sự, độc lập tuyệt đối, không có sự ràng buộc, lệ thuộc vào bất kỳ tổ chức hoặc quốc gia nào. Trong đó, cần chú ý đến bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc - một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Kiên định với mục tiêu chủ nghĩa xã hội, bảo vệ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lực lượng Công an nhân dân cần nhận thức được các âm mưu, phương thức của các thế lực thù địch nhằm vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Hiện nay, bằng những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, bôi đen chủ nghĩa xã hội, bác bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, các đối tượng thù địch, chống phá cho rằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là không có thực; Việt Nam sớm muộn cũng sớm sụp đổ như Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Các luận điệu đó gây ra không ít khó khăn cho công tác an ninh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất đủ sức lãnh đạo toàn dân tộc ta giữ vững độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Muốn làm được điều đó lực lượng vũ trang và Nhà nước phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Với âm mưu thâm độc muốn lật đổ Đảng Cộng sản và chính quyền của nhân dân, các thế lực thù địch thường sử dụng những thủ đoạn sau:
- Kêu gọi bỏ Điều 4 ra khỏi Hiến pháp, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Từ khi ra đời (ngày 03/02/1930) đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn là lực lượng lãnh đạo và đóng vai trò quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã liên tục được quy định cụ thể trong các bản Hiến pháp (Hiến pháp 1946, Hiếp pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là một thực tế lịch sử không gì có thể thay đổi được.
Kêu gọi bỏ Điều 4 ra khỏi Hiến pháp, các thế lực thù địch nuôi âm mưu hợp pháp hóa sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này sẽ tạo hành lang pháp lý cho sự ra đời các tổ chức này công khai đấu tranh với Đảng Cộng sản. Và dưới tác động của các thế lực thù địch bên ngoài, chúng sẽ dễ dàng chuyển hóa Việt Nam bằng các cuộc “cánh mạng màu”, “cách mạng da cam”, “cách mạng đường phố”, điều đã từng xảy ra với một số quốc gia trên thế giới thời gian qua.
- Tuyên truyền phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, đặc biệt là công an và quân đội.
Đây là một thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, nhằm loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, Công an. Trước hết, chúng tập trung các hoạt động nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cho Quân đội, Công an mất phương hướng, lý tưởng, mục tiêu chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, suy yếu về chính trị, dẫn đến vô hiệu hóa.
Các thế lực thù địch đã và đang sử dụng mọi biện pháp cả về lý luận, tư tưởng, lẫn hành động hòng làm thay đổi bản chất chính trị của quân đội và công an. Chúng lập luận trơ trẽn rằng, việc tổ chức ra lực lượng vũ trang chỉ là để bảo vệ “lợi ích dân tộc”, “lợi ích quốc gia”. Bởi thế, quân đội, công an phải “trung lập”, “đứng ngoài chính trị”, “không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào”, v.v. Thực chất của những lời hô hào đó là nhằm che giấu, làm lu mờ bản chất giai cấp, chức năng chính trị, xã hội của lực lượng vũ trang cách mạng; phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với lực lượng vũ trang; phủ nhận Điều 4 Hiến pháp, hướng tới làm tê liệt, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với hai lực lượng này. Điều này làm cho Đảng và Nhà nước ta mất chỗ dựa vững chắc trong quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước.
- Cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là đấu tranh giai cấp còn tư tưởng Hồ Chí Minh là đấu tranh cho dân tộc thuần túy, không thể áp đặt chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
Hệ tư tưởng là thứ cốt lõi đối với mỗi chính Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”[26]. Với âm mưu xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, chống phá thành quả cách mạng của nhân dân ta, các đối tượng thù địch tập trung phủ nhận, xuyên tạc vào chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tách biệt tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi chủ nghĩa Mác-Lênin, cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là đấu tranh cho dân tộc thuần túy còn chủ nghĩa Mác-Lênin là đấu tranh giai cấp. Hơn nữa, chúng cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây và đặt chủ nghĩa Mác vào bối cảnh thế kỷ XXI thì chẳng thể là khoa học.
- Chúng cho rằng Hồ Chí Minh với cách mạng giải phóng dân tộc gây ra cảnh “nồi da nấu thịt” với hai cuộc chiến tranh suốt mấy chục năm trên đất nước Việt Nam. Cho rằng Hồ Chí Minh là người dân tộc chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm phương tiện; đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử.
Lịch sử đã chỉ ra rằng chính giặc ngoại xâm là kẻ đã gây ra hai cuộc chiến tranh trên đất nước chúng ta, ngay cả những kẻ tham chiến cũng đã thừa nhận cuộc chiến mà chúng gây ra là sai lầm, thất bại. Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được vũ trang bằng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin lãnh sứ mệnh lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh vì mục tiêu giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội đương nhiên phải động viên, tổ chức lực lượng toàn dân đứng lên để bảo vệ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc mình.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự kết tinh và phát triển trí tuệ của toàn nhân loại trên một tầm cao mới. Như nội dung chương I đã phân tích, Hồ Chí Minh là một người yêu nước chân chính, chủ nghĩa yêu nước là động lực lớn để đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy ánh sáng của con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho thấy, dưới ngọn cờ của Đảng, toàn dân ta đã đoàn kết chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược và giành lại độc lập, tự do thực sự cho Tổ quốc.
Qua 30 năm đổi mới, những thành tựu về mọi mặt mà đất nước ta đạt được đã chứng minh cho sự lựa chọn đúng đắn đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Đạt được những thành tựu đó, một phần quan trọng là do Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo những quan điểm đi lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I.Lênin. V.I.Lênin khẳng định, đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là xóa bỏ kinh tế thị trường mà phải sử dụng kinh tế thị trường nhưng không phải là thị trường tự do cạnh tranh tư bản chủ nghĩa mà có sự điều tiết của nhà nước. Đó là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu …
Những luận điệu trên của các đối tượng thù địch gây nhiều khó khăn cho công tác an ninh của ta trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng. Nhất là với sự phổ biến của các phương tiện thông tin đại chúng, công tác quản lý về an ninh thông tin của ta còn nhiều bất cập, các luồng thông tin chưa được kiểm soát phổ biến tràn lan trên mạng xã hội, báo điện tử, blog cá nhân… Chính điều này đã tác động không nhỏ đến lập trường tư tưởng của một bộ phận quần chúng nhân dân, bao gồm nhiều tầng lớp, thành phần trong xã hội. Đặc biệt trong đó còn có một bộ phận là Đảng viên, tầng lớp văn nghệ sĩ … những người có uy tín và sức ảnh hưởng trong xã hội. Việc nắm vững nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với người cán bộ công an. Một mặt, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp người công an nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố lập trường, trau dồi đạo đức, lối sống; mặt khác, việc học tập cung cấp cho người học hệ thống lý luận, nhận thức đúng về quy luật vận động của cách mạng Việt Nam, góp phần xứng đáng của mình trong tuyên truyền, giáo dục tư tưởng cho nhân dân, đấu tranh chống các luận điệu sai trái, thù địch.
ThS. Nguyễn Cao Sơn - Hà Tiến Linh
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội?
2. Phân tích những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong cách tiếp cận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội?
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội?
4. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”
5. Trình bày giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay. Ý nghĩa học tập đối với người cán bộ công an..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc VIII, IX, X, XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hội đồng Lý luận Trung ương: Luận cứ phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật. Hà Nội, 2014
5. Tô Lâm (chủ biên), Nguyễn Cao Sơn, Nguyễn Việt Hùng: 125 câu nói của Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2015.
6. Nguyễn Trọng Phúc – Nguyễn Cao Sơn: Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 – giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số tháng 8/2015.
7. Nguyễn Cao Sơn – Nguyễn Việt Hùng (đồng chủ biên): Vận dụng một số nội dung khoa học chính trị trong công tác công an (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
8. Nguyễn Cao Sơn: Bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện mới, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 11/2015.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập , Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, t.5, tr.575
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 266
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 562
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10 tr. 128
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3 tr. 555
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3 tr. 1
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 198
[8] Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 196
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 4
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 480
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 480
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 465
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 466
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 467
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr. 289
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 447
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 271
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 493
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 70
[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 187
[21] Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
[22] Bài phát biểu tại Hà Nội, ngày 12/9/1973
[23] Trường đại học Sư phạm I Hà Nội và Viện Thông tin khoa học xã hội: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Hà Nội, 1993, tr 51, 113
[25]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.400
[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289
0 Nhận xét