I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về cán bộ
Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng cán bộ. Đánh giá đúng vị trí, vai trò của cán bộ, Người cho rằng “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[1]. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc viết trong tháng 10 năm 1947, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”[2].
Có sự quan tâm lớn đối với cán bộ cho nên Hồ Chí Minh đã giành nhiều bài viết, bài nói về cán bộ. Khi đề cập về cán bộ cách mạng Hồ Chí Minh đề cập đến những nội dung như: Đạo đức cách mạng của người cán bộ; tinh thần trách nhiệm của người cán bộ; năng lực của người cán bộ; kỷ cương, kỷ luật của người cán bộ…
Theo Hồ Chí Minh đối với người cán bộ cách mạng trước hết phải lấy “đạo đức làm cốt”, đạo đức là gốc của người cán bộ cách mạng. Người nói: “Việc nước lấy Đoàn thể làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán. Cán bộ lấy đức làm cốt cán”[3]. Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ là những người có đạo đức cách mạng: Trung với nước, Hiếu với dân; Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư; Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; Thương yêu con người, sống có tình, có nghĩa.
Nhấn mạnh đến những tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng: Cán bộ phải là người có tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ là những người “trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh”.
Theo Hồ Chí Minh sự nghiệp cách mạng là hết sức khó khăn, gian nan, vất vả, phải đấu tranh xóa bỏ những những cái “cũ kỹ” để xây dựng một xã hội mới “tốt đẹp” hơn. Xây dựng một Nhà nước mới thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; xã hội mới mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cho nên, bên cạnh những phẩm chất về đạo đức, tinh thần quyết tâm cách mạng, Hồ Chí Minh đồng thời cũng rất coi trọng năng lực, phẩm chất về tài năng của người cán bộ. Hồ Chí Minh từng khẳng định cán bộ là người có đủ năng lực đảm đương công việc dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Sinh thời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng giữa lời nói và hành động luôn nhất quán, đối với mọi vấn đề, mọi hoạt động của mình, Người luôn chú trọng đến việc nêu gương trong từng lời nói, đến hành động. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải luôn coi trọng kỷ cương, kỷ luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Người cán bộ phải thật sự gương mẫu, là tấm gương sáng để nhân dân noi theo. Thi hành kỷ luật và pháp luật nghiêm minh là điều kiện quan trọng để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, khác biệt hoàn toàn về bản chất với xã hội cũ.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Hồ Chí Minh nêu lên những nội dung cơ bản là phải biết cán bộ, lựa chọn cán bộ, dùng cán bộ, cất nhắc cán bộ, thương yêu cán bộ và phê bình cán bộ:
“Biết cán bộ”: Theo Hồ Chí Minh là đánh giá đúng phẩm chất và năng lực của cán bộ một cách khách quan, khoa học. Đánh giá thẳng thắn tầm quan trọng của việc “biết cán bộ” Hồ Chí Minh khẳng định: “Phải biết rõ cán bộ - Từ trước đến nay, Đảng ta chưa thực hành cách thường xem xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hoá cũng lòi ra”[4].
“Lựa chọn cán bộ”: Hồ Chí Minh xây dựng những tiêu chí lựa chọn cán bộ hết sức rõ ràng, đầy đủ, toàn diện. Người cho rằng phải lựa chọn được những cán bộ là:
“a) Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh.
b) Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
c) Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn.
d) Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật. Đó là những khuôn khổ để lựa chọn cán bộ, chúng ta phải theo cho đúng. Trong Đảng ta, có những nơi thường dùng những người văn hay nói khéo, nhưng không làm được việc, không ra tranh đấu. Mà những đồng chí viết không hay nói không thạo nhưng rất trung thành, hăng hái, rất gần gụi quần chúng, thì bị dìm xuống. Chúng ta phải sửa chữa ngay những điểm đó. Đã lựa chọn đúng cán bộ còn cần phải dạy bảo lý luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có một mắt sáng, một mắt mù”[5].
“Huấn luyện cán bộ”: Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng công tác huấn luyện cán bộ. Xuất phát từ đặc điểm của cán bộ lúc bấy giờ là “Phần đông cán bộ là công nhân và nông dân, văn hoá rất kém. Đảng chưa tìm đủ cách để nâng cao trình độ văn hoá của họ”[6]. Cho nên theo Người: “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[7].
“Dùng cán bộ” hay “cất nhắc cán bộ”: Hồ Chí Minh cho rằng phải làm cho đúng, cho khách quan và phải dựa trên cơ sở đánh giá đúng cán bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu những người làm công tác cán bộ phải có lòng “độ lượng vĩ đại” thì mới có thể đánh giá và sử dụng cán bộ một cách chí công vô tư. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng. Cất nhắc cán bộ là một công tác cần kíp. Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại”[8].
“Cất nhắc cán bộ”: Hồ Chí Minh cho rằng, việc “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất đinh chạy”.
“Yêu thương cán bộ”: Hồ Chí Minh nêu quan điểm: Đảng “phải thương yêu cán bộ”. Nhưng yêu thương cán bộ không phải là vỗ về, nuông chiều, phó mặc. Mà yêu thương cán bộ trên cơ sở giúp đỡ, giáo dục, đào tạo cán bộ sao cho thật sự tốt. Yêu thương cán bộ trên cơ sở giáo dục, rèn rũa cán bộ, thi hành khen thưởng - kỷ luật nghiêm minh. Đối với những người có công thì phải khen thưởng, những người công tác ở vùng biên giới, hải đảo, vùng khó khăn phải có chính sách đãi ngộ, ưu tiên hơn những vùng thành phố. Đối với người mắc sai lầm còn cơ hội sửa chữa được thì phải thật thà giúp đỡ trên cơ sở thực thi “phê bình và tự phê bình”.
“Phê bình cán bộ”: Tức là thái độ ứng xử đối với cán bộ khi họ có sai lầm, khuyết điểm. Quan điểm nền tảng của Hồ Chí Minh ở đây là “ Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”. Cho nên, trong thực tiễn hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh luôn lựa chọn biện pháp phê bình, kiểm thảo là biện pháp đầu tiên để xử lý cán bộ mắc sai lầm. Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng biện pháp nhân trị, giáo dục, thuyết phục con người. Theo Hồ Chí Minh phe bình và tự phê bình phải có phương pháp, có cách thức, nhằm mục đích giúp đồng chí, đồng đội tiến bộ. Người phân biệt rõ ràng phê bình và tự phê bình với trù dập cán bộ, người chú trọng việc cán bộ khuyến khích nhân dân phê bình. Tuy nhiên, đồng thời Hồ Chí Minh cũng luôn đặc biệt coi trọng việc thi hành kỷ luật, pháp luật nghiêm minh để làm gương đối với những trường hợp vi phạm. Riêng đối với những người không còn sửa chữa được nữa nếu cần thiết thì cho ra khỏi hệ thống Nhà nước, thậm chí xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ cho chúng ta thấy sự thống nhất chặt chẽ giữa tính khoa học, tính nghệ thuật và vượt lên trên tất cả là tính nhân văn sâu sắc.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ CÔNG AN NHÂN DÂN
1. Nội hàm “cán bộ công an” theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến nội hàm của Người cán bộ trong một bài nói, một bài viết mà nội hàm cán bộ được Người nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
Tại Bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh HóaHồ Chí Minh đã đưa ra một khái niệm cán bộ toàn diện, sâu sắc. Theo Người: “Cán bộ là gì? Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”[9].
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh tiếp tục quan niệm về cán bộ: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”[10].
Khi đề cập đến người cán bộ công an, Hồ Chí Minh quan niệm: “Công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc”[11]. Vào thời điểm khác Hồ Chí Minh lại cho rằng cán bộ công an là người đi đầu, tiên phong trong việc thực thi chính sách pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau có những lúc liệt kê, có những lúc khái quát, song từ những quan niệm của Hồ Chí Minh đã nêu trên cho chúng ta thấy, cán bộ công an theo Hồ Chí Minh là “con người cụ thể”, được tuyển dụng, đào tào, bồi dưỡng, làm việc trong Ngành công an nhằm phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhà nước.
2. Vị trí, vai trò của cán bộ công an
a.Về vị trí
Nói đến vị trí của người cán bộ công an Hồ Chí Minh đã có cách thức xác định đúng đắn, rất độc đáo, sáng tạo, vừa đánh giá đúng bản chất, vị thế của người cán bộ công an vừa mang tính toàn diện, thuyết phục, đi vào lòng người:
- Đối với nhân dân
Trong mối tương quan giữa cán bộ công an với nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng trước hết người cán bộ công an giữ vị trí vừa là người lãnh đạo, chỉ huy, hướng dẫn, giúp đỡ vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Đây là một quan điểm hết sức đúng đắn thể hiện mối quan hệ biện chứng trong mối tương quan vị trí của người cán bộ công an so với nhân dân.
- Đối với Đảng, Nhà nước, Chính phủ:
Người cán bộ công an giữ một vị trí hết sức quan trọng, một bộ phận cấu thành không thể thiếu, là sợi dây chuyền để cho bộ máy công an hoạt động có hiệu quả. Người công an như động cơ thúc đẩy, duy trì tầm ảnh hưởng, mọi hoạt động của bộ máy công an. Nếu không có người cán bộ công an thì mọi hoạt động của bộ máy công an ngừng hoạt động.
- Đối với người cán bộ khác trong bộ máy Nhà nước dân chủ nhân dân:
Bên cạnh việc xác định vị trí của người cán bộ công an trong mối tương quan với nhân dân và xác định vị trí của người công an trong bộ máy Nhà nước, Hồ Chí Minh còn luôn quan tâm tới việc xác định vị trí của cán bộ công an với cán bộ của các cơ quan, ban ngành khác trong Nhà nước dân chủ nhân dân. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc xác định đúng vị trí của người cán bộ công an so với vị trí của người cán bộ ở các cơ quan, đoàn thể khác. Theo Người, việc xác định đúng vị trí của cán bộ công an là một trong những biện pháp quan trọng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh luôn quan niệm rõ tuyệt đối không thiên vị, coi trọng lực lượng, cán bộ của cơ quan, đơn vị này hơn cán bộ của cơ quan, đơn vị khác. Người luôn rất công bằng, công tâm, đánh giá đúng vai trò quan trọng của các cơ quan, đơn vị, đoàn thể. Cho nên, Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ công an với người cán bộ ở các cơ quan, đơn vị, đoàn thể khác đều có vị trí ngang bằng nhau, là người “đồng chí”, không phân biệt hơn, kém và đều “người đày tớ thật trung thành của nhân dân” phải hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc.
b.Về vai trò
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh bên cạnh việc tập trung xác định một đường lối cách mạng đúng đắn, xây dựng được một chính Đảng vững mạnh đủ sức tập hợp và lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân dân để đi tới giành thắng lợi thì Người đồng thời đặc biệt chú trọng đến việc cán bộ và công tác cán bộ. Bởi lẽ, trong thực tiễn hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò, tầm quan trọng to lớn của cán bộ.
Đánh giá đúng vai trò của người cán bộ Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán”. Nghĩa là theo Hồ Chí Minh cán bộ là xương sống, là gốc, là điểm tựa quan trọng nhất của hoạt động đoàn thể, giống như lực lượng cách mạng là đông đảo quần chúng nhân dân, nhưng trong đó công - nông là gốc của người cách mạng.
Trong một lần khác Hồ Chí Minh đánh giá vai trò của cán bộ qua một câu nói hết sức cô đọng, súc tích nhưng toàn vẹn, đầy đủ về vai trò của người cán bộ. Hồ Chí Minh nhận định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh có sự vận dụng, phát triển sáng tạo những tiền đề lý luận của ông cha ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Cha ông ta từng cho rằng “nước lấy dân làm gốc”, coi nhân dân là kế “sâu dễ, bền gốc” thì Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ là gốc của mọi công việc. “Gốc có vững thì cây mới bền”, vì vậy người cán bộ là điểm mấu chốt, điểm gốc, điểm mẹ hết sức quan trọng của mọi công việc từ lớn đến bé, từ quan trọng đến ít quan trọng của cách mạng.
Trên cơ sở đánh giá vai trò của người cán bộ nói chung như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tầm quan trọng của người cán bộ công an. Khi bàn về vai trò của người cán bộ công an Hồ Chí Minh đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ công an giữ vai trò “nòng cốt”, “tiên phong” trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Bởi lẽ, giữ gìn trật tự, an ninh trước hết là nhiệm vụ của ngành công an. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu và có nhiều biện pháp giúp đỡ, thúc đẩy để người cán bộ, chiến sỹ công an luôn luôn phát huy được vai trò nòng cốt, tiên phong của mình trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh.
Đồng thời, Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ công an giữ vai trò là “thanh bảo kiếm” để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân. Người cán bộ công an là lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh đập tan mọi hoạt động của cách thế lực thù địch, tham mưu cho Đảng, Nhà nước đề ra nhiều chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo.
Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh, cán bộ công an là một trong những nhân tố quan trọng, giữ vai trò đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Người cán bộ công an là lực lượng định hướng, giúp đỡ nhân dân, đào tạo, huấn luyện nhân dân để nhân dân phát huy được sức mạnh to lớn của mình trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Đồng thời, cán bộ công an cũng là lực lượng quan trọng hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ dạy các lực lượng khác có những biện pháp, cách thức bảo vệ an ninh, trật tự.
Nói đến vai trò của người cán bộ công an tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng dù ở cách thức nào cũng hết sức đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu. Song Hồ Chí Minh cho rằng “Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có người, mà trong số người muốn lên chủ nghĩa xã hội thì cán bộ là đầu tiên và cốt cán”. Trong số những người cán bộ đó, người cán bộ công an là lực lượng tiên phong nhất, cần đi trước các cơ quan, ban ngành, đoàn thể khác.
3. Yêu cầu về những phẩm chất cần có của người cán bộ công an
- Yêu cầu về chính trị:
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đặc biệt chú ý đến việc xây dựng lực lượng công an nhân dân vững mạnh về chính trị. Mà trước tiên, Người chú trọng xây dựng người cán bộ công an có bản lĩnh chính trị vững vàng.
Theo Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị của người cán bộ công an thể hiện rõ nét ở chỗ là luôn luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, chế độ và Tổ quốc trong mọi tình huống, mọi điều kiện, hoàn cảnh. Vì những lẽ đó trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ dạy giúp đỡ lực lượng Công an nhân dân từng bước xây dựng và phát triển về mọi mặt Hồ Chí Minh luôn đặt ra một yêu cầu cốt yếu đối với người cán bộ công an là phải tuyệt đối trung thành. Trong tác phẩm Tư cách người Công an cách mạng Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ công an“Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành”. Hồ Chí Minh cho rằng trung thành là một trong những tiêu chí quan trọng, đầu tiên để tuyển chọn cán bộ, chiến sỹ công an.
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu người cán bộ công an phải phục tùng sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng từ trên xuống dưới, nhất định phải như thế. Cán bộ công an phải tuyệt đối không được cho rằng các đồng chí lãnh đạo đảng không có chuyên môn, nghiệp vụ công an nên không lãnh đạo được công an. Theo Hồ Chí Minh mỗi người cán bộ Công an phải luôn nhận thức rõ còn Đảng, còn mình, Đảng có lãnh đạo đúng thì chuyên môn mới đúng. Vì vậy, người cán bộ công an “Phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng từ trên xuống dưới”. Đây vừa là yêu cầu, vừa là nguyên tắc.
- Yêu cầu về tư tưởng:
Cán bộ công an là lực lượng nòng cốt, tiên phong bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc cho nên theo Hồ Chí Minh phải luôn có lập trường tư tưởng cách mạng vững vàng. Đề cập đến yêu cầu về tư tưởng đối với người cán bộ công an, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cán bộ công an phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Bác từng nói: “Còn về phần cán bộ công an thì phải như thế nào?... Trước hết cán bộ phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, lập trường phải rõ ràng, vững chắc đã”. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo Người là việc tăng cường sự học tập quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ công an phải có tinh thần phục vụ nhân dân. Người chỉ rõ “Công an phải có tinh thần phục vụ nhân dân, là bạn dân”. Cán bộ công an cần nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình trong mối tương quan đối với nhân dân. Trong tư tưởng của mình, người công an cần xác định rõ công an là người đày tớ thật sự trung thành của nhân dân, làm công an là để phục vụ nhân dân, đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ công an phải luôn thật sự cố gắng, biết vượt qua khó khăn, gian khổ để xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ công an phải thấy rõ: “Là Đảng, Chính phủ hết sức chăm sóc. Các cô các chú phải xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và Chính phủ”. “Phải có tinh thần cố gắng, vươn lên khắc phục khó khăn, gian khổ”. Bởi lẽ, công tác của ngành công an phải thường xuyên đối diện với những khó khăn, nguy hiểm, gian nan, vất vả, nhiều hi sinh thầm nặng, không phải thường xuyên được lên báo, lên đài đài phát thanh mới là vẻ vang, công tác công an rất cần và cũng rất khó. Vì vậy, đòi hỏi trong tư tưởng của người cán bộ công an phải luôn luôn cố gắng, biết vượt qua khó khăn, gian nan, vất vả.
Về mặt tư tưởng, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu rõ cán bộ công an “Phải luôn luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm. Có như vậy mới xứng đáng là người cán bộ được Đảng và nhân dân tín nhiệm”. Trách nhiệm, gương mẫu trong công việc là người cán bộ công an đã góp phần quan trọng vào việc tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
- Yêu cầu về phẩm chất đạo đức:
Theo Hồ Chí Minh đạo đức là một trong những yêu cầu, đòi hỏi quan trọng nhất đối với người cán bộ cách mạng nói chung và đối với người cán bộ, chiến sỹ công an nhân dân nói riêng. Đánh giá đúng tầm quan trọng của đạo đức và sự cần thiết phải có đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định “Cán bộ lấy đức làm cốt cán”. Trong tác phẩm Di chúc để lại cho Đảng, Nhà nước ta Hồ Chí Minh cũng đã yêu cầu “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Đối với lực lượng Công an nhân dân Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ công an phải cố gắng, gương mẫu trong học tập, trong công tác, gương mẫu về đạo đức cách mạng”[12].
Trong tác phẩm Tư cách người công an cách mạng viết năm 1948 Hồ Chí Minh đã căn dặn và yêu cầu người cán bộ công an “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”[13]…
Để nâng cao đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ công an phải thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Bác nói: “Phải trau dồi đạo đức cách mạng, cũng phải chống chủ nghĩa cá nhân”. Đây là hai công việc cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, bền bỉ. Bác cho rằng chủ nghĩa cá nhân như “cỏ dại” một căn bệnh hết sức nguy hiểm đối nghịch hoàn toàn với tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nên cần phải loại bỏ. Muốn vậy, người cán bộ công an phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng.
Từ những yêu cầu và sự chỉ dạy cụ thể đó, Hồ Chí Minh đi đến tóm lược. Người khẳng định: “Nói tóm lại là những đạo đức và tư cách mà người công an cách mệnh phải có, phải giữ cho đúng”[14].
- Yêu cầu đối với công tác chuyên môn, nghiệp vụ:
Hồ Chí Minh đã đưa ra rất nhiều những yêu cầu cụ thể, rõ ràng cần phải có của người cán bộ công an trong quá trình thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ để giữ gìn trật tự, an ninh, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân.
Một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với công tác chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công an, đó là: “Đối với công việc phải tận tụy”. Nghĩa là người cán bộ công an phải thật sự chăm chỉ, chịu khó, hết lòng hết sức đối với công việc được giao phó.
Để thực hành chuyên môn, nghiệp vụ cho tốt, cho đúng đắn, Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ công an “Phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ”[15]. Người cán bộ công an phải gương mẫu, đi đầu trong việc thực thi chính sách của Đảng và Chính phủ.
Công tác chuyên môn, nghiệp vụ công an có nhiều bí mật, thầm lặng nhưng đồng thời cũng rất khó, là liên quan đến vận mệnh của chế độ, quốc gia, dân tộc và sinh mệnh chính trị của con người cho nên, theo Hồ Chí Minh “Về công tác: Phải đi sâu, phải thiết thực, phải điều tra nghiên cứu, không được chủ quan, tự túc tự mãn”[16]. Đây là những yêu cầu người cán bộ công an phải luôn ghi nhớ và thực hành cho tốt trong mọi tình huống, mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ công an: “Làm việc phải có điều tra, nghiên cứu, không được tự kiêu, tự đại. Phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”[17].
Trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ Hồ Chí Minh quan niệm rằng, cán bộ công an “Phải cảnh giác, phải biết trấn áp kẻ địch bên trong và kẻ địch bên ngoài”. Đây là một yêu cầu quan trọng, là công việc mà người cán bộ công an phải thường xuyên thực hiện cho nên phải làm cho thật tốt, thật hiệu quả.
Công tác công an liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều địa bàn, đặc biệt là ở những vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào, dân tộc, tôn giáo cho nên theo Hồ Chí Minh, cán bộ công an “Phải nắm vững chính sách đối với đồng bào thiểu số, điều đó rất cần thiết”[18]. Đây là điều kiện đề người cán bộ công an gần gũi với nhân dân, thật sự thân dân, đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Đồng thời đó cũng là điều kiện để người cán bộ công an luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, thường xuyên người cán bộ công an đối diện với kẻ thù, cho nên Hồ Chí Minh yêu cầu phải luôn giữ được bản lĩnh cách mạng, “đối với địch, chớ nên hoang mang, cần phải hết sức trấn tĩnh, trấn tĩnh là bước đầu thắng địch. Cố nhiên, trấn tĩnh rồi còn phải đi sâu xét kỹ”[19]. Bác cho rằng địch không có gì tài tình gì đâu, có những điều ta không dấu địch mà địch cũng không học được bởi lẽ chúng ta có chính nghĩa.
Trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ công an phải kiên quyết tránh chống sử dụng nhục hình. Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán, lên án hành vi sử dụng nhục hình, Người cho rằng sử dụng nhục hình là dã man, là chưa tẩy rửa được bản chất phong kiến, là dẫn đến sai lệnh vụ án, cho nên cần phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ nhục hình.
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu trong quá trình thực hiện công tác chuyên mốn công an phải có “Lề lối làm việc phải dân chủ”… nghĩa là phải thực hiện nghiêm túc chính sách phê bình và tự phê bình, phê bình từ trên xuống dưới, “Phải hoan nghênh nhân dân phê bình công an, để đi đến hiểu công an, yêu công an, và giúp đỡ công an”[20].
Hồ Chí Minh từng khẳng định công tác công an rất cần nhưng cũng rất khó cho nên người cán bộ chiến sỹ công an cần phải có tài, như:
· Chính trị giỏi
· Pháp luật giỏi
· Bắn súng giỏi
· Bơi giỏi
· Bảo vệ giỏi
· Kỹ thuật giỏi
· “Khôn khéo”
· “Can đảm”
· Có hiểu biết văn hóa, phong tục của từng địa phương.
· Có năng lực thuyết phục, vận động quần chúng
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, Hồ Chí Minh yêu cầu, trong công tác chuyên môn, cán bộ công an phải thật sự gần dân, thân dân, phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh. Cán bộ, chiến sỹ công an “Phải dựa vào dân, không được xa rời dân”[21]. “Phải đoàn kết nhân dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng rộng lớn của nhân dân”[22]. “Phải đi đường lối quần chúng thì nhân dân mới tin yêu, giúp công an và công an mới thành công được”[23]. “Phải đoàn kết nội bộ, đoàn kết với nhân dân và với các ngành khác”[24].
Trong công tác cán bộ công an phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Bác nói: “Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau tiến bộ”[25]. Đây là điểm mấu chốt, là cơ sở để cán bộ công an hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, luôn xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và nhân dân. Người cán bộ công an phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, coi trọng việc xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ, tương thân, tương ái.
Mặc dù đề ra rất nhiều những yêu cầu đối với người cán bộ, chiến sỹ công an nhưng Hồ Chí Minh cũng không quên nhắc nhở và yêu cầu người cán bộ công an “Phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của người công an nhân dân của một nước dân chủ nhân dân”[26].
- Yêu cầu về ý thức tổ chức, kỷ luật:
Kỷ luật theo Hồ Chí Minh là sức mạnh. Sinh thời Người mặc dù rất coi trọng biện pháp nhân trị, giáo dục, thuyết phục con người, song đồng thời Người cũng đặc biệt coi trọng việc xây dựng ý thức tổ chức, kỷ luật. Cho nên, đối với người cán bộ công an Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu “Phải nâng cao kỷ luật, tính tổ chức, chống ba phải, nể nang”[27]. Đối với người cán bộ, chiến sỹ công an, xuất phát bản chất là lực lượng vũ trang, công tác chuyên môn thường xuyên đối diện với nhiều nguy hiểm và có nhiều bí mật, coi trọng kỷ luật và chấp hành tốt kỷ luật là một đòi hỏi phải luôn luôn được thực hành.
4. Nhiệm vụ của người cán bộ công an
Khi đề cập đến nhiệm vụ của người cán bộ công an, Hồ Chí Minh có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có những lúc người khái quát, có những lúc người liệt kê, tùy theo từng điều kiện, hoàn cảnh và thời điểm nói.
Để có cách nhìn tổng thể, dễ dàng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiệm vụ của người cán bộ, chiên sỹ công an chúng ta có thể thấy như sau:
+ Cán bộ công an có nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, chế tộ, Tổ quốc. Hồ Chí Minh nói: “Nhiệm vụ của công an là bảo vệ và phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân”[28].
+ Bảo vệ các công trình trọng điểm, chống địch phá hoại: Tại buổi Nói chuyện tại Hội nghị công an toàn quốc lần thứ 10 vào tháng 1 năm 1956 Hồ Chí Minh chỉ rõ nhiệm vụ của cán bộ công an. Người khẳng định: “Nhiệm vụ của công an là phải chặn tay bọn phá hoại”[29], bảo vệ các công trình trọng điểm.
+ “Trấn áp thù trong - giặc ngoài”
+ Có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an ninh.
+ Phòng gian phải đi đôi với giữ bí mật.
+ Giáo dục người mắc lầm lỗi: Theo Hồ Chí Minh giáo dục người lầm lỗi là một nhiệm vụ cần phải được tiến hành thường xuyên của người cán bộ công an. Người đã chỉ ra nhiều phương pháp, cách thức để người cán bộ công an giáo dục người lầm lỗi. Trong đó Hồ Chí Minh đã chỉ ra yêu cầu giáo dục với người lầm lỗi là: “ngay cả đối với người “dinh tê” cũng không được coi thường họ mà phải giáo dục họ, thuyết phục họ để họ thấy chũng ta là những người cách mạng”.
+ Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng lực lượng công an đoàn kết, trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh từng nói: “Đối với nhân dân, đối với Đảng, với cách mạng xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm của công an rất lớn, rất nặng nề. Cho nên phải xây dựng một bộ máy công an rất tốt, rất chắc chắn. Ai phải xây dựng? Mỗi một cán bộ công an đều có trách nhiệm vào đấy”[30]. Xây dựng bộ máy công an đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, thiết thực, hiệu quả. Đây là một nhiệm vụ đòi hỏi từng cán bộ công an phải thực hành cho tốt. Tuyệt đối tránh tư tưởng đùn đẩy trách nhiệm, cho rằng việc xây dựng bộ máy công an là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo trong Công an nhân dân.
+ “Công an phải luôn luôn giúp đỡ, tổ chức, giáo dục nhân dân” cũng như các lực lượng khác trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh”. Người nhấn mạnh: “Mỗi công an viên đóng chỗ nào thì cần dạy cho dân quân, tự vệ nơi đó cách điều tra, xét giấy, phòng gian, v.v.. Dạy cho dân ở nơi đó giữ bí mật. Và tự mình phải luôn luôn giữ lễ phép. Tránh hách dịch, v.v..”[31].
Liệt kê nhiệm vụ của Công an rất nhiều, song Hồ Chí Minh tóm tắt lại: “Nhiệm vụ của công an thì nhiều, nhưng nói tóm tắt là bảo vệ sự nghiệp xã hội chủ nghĩa”[32].
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN
1. Tầm quan trọng của công tác cán bộ trong Công an nhân dân
Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta và xuất phát từ những kinh nghiệm đúc rút từ trong thực tiễn, Hồ Chí Minh đã sớm chỉ cho chúng ta thấy ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của công tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ trong Công an nhân dân nói riêng.
Hồ Chí Minh đã từ rất sớm đã có nhận thức đúng đắn, toàn diện, đầy đủ khi cho rằng công tác cán bộ là một vấn đề chiến lược, có ý nghĩa lâu dài trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy, ngay từ khi ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ để phục vụ cho cách mạng về sau này. Người đã thường xuyên mở những lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ. Đồng thời, Người cũng tổ chức tuyển chọn, giới thiệu cán bộ trong nước ra nước ngoài học tập, công tác ở trường Đại học phương Đông… Trên cơ sở đó, sau này cách mạng Việt Nam đã có một lượng cán bộ đông đảo, đủ phẩm chất để tham gia hoạt động cách mạng trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ. Chính vì vậy, theo Hồ Chí Minh, công tác cán bộ trong Công an nhân dân cũng là một vấn đề chiến lược, có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Theo Hồ Chí Minh, công tác cán bộ trong công an là cơ sở để xây dựng một đội ngũ cán bộ công an có phẩm chất chính trị, tư tưởng vững vàng, chuyên môn, nghiệp vụ giỏi để đảm đương được mọi nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân ta giao phó. Công tác cán bộ đồng thời cũng là cơ sở, điều kiện để xây dựng một bộ máy Công an nhân dân Việt Nam trong sạch, “vững mạnh về chính trị”, “vững vàng về tư tưởng”, xây dựng bộ máy công an “tinh gọn, thiết thực, hiệu quả”.
Thời gian ngày càng lùi đi xa nhưng cho đến nay những đánh giá của Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của Công tác cán bộ vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Công tác tuyển chọn cán bộ Công an nhân dân
Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng công tác tuyển chọn cán bộ và nhấn mạnh sự cần thiết phải tuyển chọn cán bộ. Thực tiễn cho thấy, Hồ Chí Minh đã xây dựng được một phương pháp, cách thức tuyển chọn cán bộ hết sức độc đáo, sáng tạo. Đồng thời, từ trong thực tiễn đã chứng minh Hồ Chí Minh là “bậc thầy” trong công tác tuyển chọn cán bộ. Trong suốt quãng đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã thực hành việc tuyển chọn cán bộ rất nhiều và những cán bộ được Hồ Chí Minh tuyển chọn đều là những người “tài đức vẹn toàn”, phục vụ đắc lực, hiệu quả nhiệm vụ cách mạng, không những được nhân dân ta kính trọng mà còn được thế giới thừa nhận. Đó là một điều đặc biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tuyển chọn cán bộ.
Công tác tuyển chọn cán bộ trong công an được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng. Người cho rằng đây là một công việc hết sức cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, hiệu quả. Tuyển chọn cán bộ sai ảnh hưởng rất lớn đến cách mạng, thậm chí là dẫn tới cách mạng thất bại.
Hồ Chí Minh cho rằng, bên cạnh những tiêu chí về tài năng, phẩm chất, điều kiện về trí tuệ, sức khỏe, thì một trong những tiêu chí luôn luôn phải có đối với những người dự tuyển vào ngành công an đó là “lòng trung thành”. Đối với Hồ Chí Minh “lòng trung thành là tiêu chí đầu tiên, quan trọng hàng đầu để tuyển chọn cán bộ công an”.
Hồ Chí Minh cho rằng công tác tuyển chọn cán bộ công an phải hợp lý góp phần xây dựng bộ máy Công an tinh gọn, thiết thực, hiệu quả. Người khẳng định: “Đảng, Chính phủ rất chú ý đến công tác của công an và đến việc giáo dục cán bộ công an. Ở trường này một người giúp đỡ hướng dẫn 4 học viên… Không có cơ quan nào lại nhiều cán bộ như thế này. Vậy chớ còn kêu là ít cán bộ”[33].
Hồ Chí Minh luôn luôn yêu cầu tuyển chọn cán bộ phải đảm bảo phục vụ mục tiêu của cách mạng, phục vụ nhân dân, đem lại hiệu quả trong công tác của ngành Công an. Tuyển chọn cán bộ vào trong ngành công an phải đảm bảo “Cách tổ chức công an phải giản đơn, thiết thực, tránh cái tệ quá hình thức, giấy má…”[34]. Bởi lẽ Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến tính hiệu quả và tiết kiệm, bởi lẽ đất nước chúng ta còn nghèo, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.
Luôn luôn quan tâm, chỉ dạy thường xuyên đến công tác tuyển chọn cán bộ công an, Hồ Chí Minh luôn rất tin tưởng vào năng lực, phẩm chất, tiêu chuẩn của người cán bộ công an. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính phủ rất chú ý đến công tác của công an và đến việc giáo dục cán bộ công an… Học sinh thì 95% là đảng viên, chỉ còn 5% là ngoài Đảng. Ngoài Đảng nhưng Đảng rất tin cậy, vì các cán bộ đó đã được chọn lọc, rất trung thành với Đảng”[35].
3. Công tác đào tạo cán bộ Công an nhân dân
- Tầm quan trọng của công tác đào tạo cán bộ:
Hồ Chí Minh luôn chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Bởi lẽ theo Hồ Chí Minh con người tốt hay xấu cũng đều do “giáo dục” cho nên muốn đào tạo được đội ngũ cán bộ công an tốt phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục, đào tạo cán bộ. Hồ Chí Minh từng nói: “Đảng, Chính phủ rất chú ý đến công tác của công an và đến việc giáo dục cán bộ công an”.
- Nguyên tắc đào tạo cán bộ:
Hồ Chí Minh đã đưa ra những nguyên tắc trong công tác đào tạo cán bộ Công an nhân dân hết sức đơn giản nhưng đầy đủ, cô đọng, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Hồ Chí Minh khẳng định công tác đào tạo:
+“Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc ấy”[36].
+ “Vô luận ở quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, tổ chức, tuyên truyền, công an, v.v., cán bộ ở môn nào phải học cho thạo công việc ở trong môn ấy”[37].
+ Công tác đào tạo cán bộ phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, bền bỉ.
- Mục tiêu đào tạo cán bộ:
Theo Hồ Chí Minh công tác đào tạo cán bộ trong công an nhân dân phải hướng tới các mục tiêu:
+ Phục vụ cho các hoạt động tích cực. Mà hoạt động tích cực theo Hồ Chí Minh đó chính là phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả, trình độ của cán bộ, chiến sỹ công an, đi vào thực tiễn, tránh lý luận suông, gắn lý luận với thực tiễn.
+ Đào tạo phải linh hoạt, sáng tạo, tránh dập khuôn máy móc, đào tạo phải đơn giản, thiết thực, hiệu quả, dễ hiểu.
+ Phải lấy công tác đào tạo cán bộ, chiến sỹ công an nhằm hướng tới mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, Nhà nước, thiết thực, hiệu quả chứ không phải là phục vụ lợi ích của một cá nhân hay một nhóm cá nhân nào.
4. Công tác sử dụng cán bộ Công an nhân dân
Hồ Chí Minh từng đưa ra nguyên tắc sử dụng cán bộ: “Dụng nhân như dụng mộc”. Theo Người, phải dùng cán bộ đúng khả năng, chuyên môn, chống việc sử dụng lung tung như: bảo thợ rèn đi đóng tủ, bảo thợ mộc đi rèn dao.
Đối với việc sử dụng cán bộ, chiến sỹ công an, Hồ Chí Minh cho rằng phải có chính sách quan tâm cán bộ, chiến sỹ đúng đắn, phù hợp. Bác căn dặn: “Một điểm nữa là đối với các anh em ở những nơi hẻo lánh, gian khổ, ra một bước phải trèo núi, v.v., thì cấp trên phải chú ý nhiều hơn đối với những đơn vị ở thành phố”[38]. Nghĩa là phải có phương pháp, có cách thức sử dụng cán bộ đúng đắn, tùy từng hoàn cảnh, môi trường, địa bàn mà có cách thức sử dụng cán bộ sao cho hợp lý.
Bác thường xuyên yêu cầu: “Cấp trên phải chú ý đến đời sống vật chất và tinh thần của chiến sĩ, nhưng chiến sĩ cũng phải có sáng kiến để cải thiện đời sống của bản thân mình. Đó là một kinh nghiệm”[39]. Như vậy, bên cạnh việc căn dặn người cán bộ, chỉ huy trong công an nhân dân phải tăng cường có nhiều biện pháp, cách thức sử dụng cán bộ sao cho hợp lý, khách quan, khoa học, sử dụng cán bộ trên cơ sở hiểu biết rõ ràng, đầy đủ về cán bộ, Hồ Chí Minh còn cho rằng những cán bộ không phải là lãnh đạo, chỉ huy trong công an cũng cần phải sáng tạo. Người cán bộ cần phải cố gắng, biết phát uy những ưu điểm của mình, hạn chế nhược điểm được thể hiện thông qua từng công việc cụ thể. Để qua đó, cũng đồng thời giúp người cán bộ chỉ huy trong Công an nhân dân có phương pháp, cách thức để đánh giá và sử dụng cán bộ sao cho thật hiệu quả.
5. Công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ Công an nhân dân
Kiểm tra, đánh giá, giám sát cán bộ, chiến sỹ Công an là một trong những hoạt động không thể thiếu trong công tác cán bộ nói chung và đối với công tác cán bộ của ngành Công an nới riêng. Công tác kiểm tra, đánh giá, giám sát cán bộ có tốt mới có điều kiện, cơ sở để kịp thời phát hiện những trường hợp cán bộ công an có dấu hiệu vi phạm, qua đó chủ động làm công tác phòng ngừa, ngăn chặn, giáo dục, thuyết phục, uốn nắn, sửa chữa ngay từ ban đầu. Tránh để đến lúc hậu quả nghiêm trọng rồi mới phát hiện thì sẽ hết sức nguy hiểm cho cách mạng.
Nhận thức rõ được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác đánh giá, giám sát cán bộ trong Công an nhân dân cho nên, theo Hồ Chí Minh công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Người nói: “Công an thường phải kiểm soát nhân viên và công việc của mình”[40].
Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương pháp kiểm tra, giám sát rất hiệu quả, vừa mang tính chất dân chủ, khách quan. Hồ Chí Minh nêu rõ yêu cầu, công tác kiểm tra giám sát phải từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Người nhận định: “Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên”[41]. Trong quá trình kiểm tra, giám sát, cần phát huy vai trò trước hết là người cán bộ, chỉ huy trong công an nhân dân. Người cán bộ, chỉ huy trong công an phải thường xuyên kiểm tra, giám sát cán bộ cấp dưới của mình. Đồng thời cũng phải phát huy dân chủ, khuyến khích, động viên cấp dưới kiểm tra, giám sát cấp trên.
Điểm độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ trong Công an nhân dân đó là Hồ Chí Minh yêu cầu công an phải khuyến khích nhân dân kiểm tra, đánh giá, giám sát công an. Qua đó, nhân dân vừa giúp đỡ công an, vừa kiểm tra công an. Đây là điểm khác biệt hoàn toàn về bản chất trong công tác kiểm tra, giám sát của Công an nhân dân Việt Nam, là một điểm độc đáo của chế độ ta, nhằm thực sự phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Hồ Chí Minh khẳng định để công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ cho thật tốt, thật khách quan, một mặt ngành công an phải xây dựng được quy chế kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ khoa học, toàn diện. Đồng thời đòi hỏi cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ phải công tâm, công minh, hướng tới mục tiêu vì nước, vì dân để làm nhiệm vụ chứ không được lợi dụng công tác kiểm tra, giám sát cán bộ để trù dập cán bộ.
6. Công tác thi đua - khen thưởng, kỷ luật cán bộ Công an nhân dân
Sự quan tâm của Hồ Chí Minh đối với công tác thi đua - khen thưởng và kỷ luật trong công an nhân dân được thể hiện rất rõ nét. Từ khi lực lượng công an nhân dân ra đời, với cương vị là Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng, Hồ Chí Minh phải thường xuyên giành thời gian chăm lo cho việc lãnh đạo đất nước, lãnh đạo cách mạng. Người không có thời gian dành cho gia đình riêng. Mặc dù bận việc nước, đường xá xa xôi, song mỗi khi có điều kiện, Hồ Chí Minh đều dành thời gian đến thăm và làm việc trực tiếp với ngành công an, nhất là mỗi khi lực lượng công an tổ chức hội nghị thi đua - khen thưởng nhằm động viên, thăm hỏi, tiếp sức cho cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân tiếp tục cố gắng, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Lúc bận việc, hoàn cảnh không cho phép, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên gửi thư khen ngợi những đơn vị, cá nhân cán bộ, chiến sĩ công an có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Bản thân Hồ Chí Minh là người đã khởi xướng, nêu ra nhiều chủ trương, biện pháp, chính sách khuyến khích, thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ công an cố gắng phấn đấu vươn lên, thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Hồ Chí Minh đánh giá: công tác thi đua - khen thưởng, kỷ luật trong công an nhân dân là rất cần thiết, giữ một vai trò quan trọng, là một giải pháp hữu hiệu, tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua, khuyến khích, động viên cán bộ, chiến sĩ công an và quần chúng nhân dân tham gia vào sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, không ngừng cố gắng, vươn lên lập thành tích xuất sắc góp phần vào sự thành công chung của sự nghiệp cách mạng.
Đồng thời, Người nhận định: qua công tác thi đua - khen thưởng, kỷ luật là cơ sở giúp ngành công an tổng kết, đánh giá thực trạng công tác của ngành, của đơn vị, của cá nhân đã thực hiện được đến đâu, những ưu điểm, mặt mạnh, mặt hạn chế, tồn tại, thiếu sót. Trên cơ sở đó giúp ngành công an có những biện pháp để xây dựng kế hoạch hoạt động của mình một cách tốt nhất để phát huy được những điểm tốt, điểm mạnh, điểm đã làm được và kịp thời phát hiện, khắc phục những điểm yếu, điểm tồn tại, hạn chế cần được sửa chữa. Hồ Chí Minh đã phân tích: “Những ưu điểm mà Bác kể trên và những điểm Bác dặn, các chú phải có công tác kiểm tra, đôn đốc cho tốt. Bác nói ít mà các chú nhớ và làm được những điều Bác nói là tốt rồi. Bác kết luận là, nếu các chú phát triển được những cái ưu điểm mà các chú đã có, làm đúng những điểm mà Bác nhắc nhở là các chú góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”[42].
Theo Hồ Chí Minh, công tác thi đua - khen thưởng có tác dụng quan trọng trong công tác xây dựng lực lượng công an nhân dân một cách toàn diện. Qua công tác thi đua - khen thưởng và kỷ luật cũng là một kênh thông tin giúp ngành công an phát hiện được những cá nhân tích cực, có phẩm chất, năng lực để kịp thời động viên, khen thưởng, nhân rộng tấm gương người tốt, việc tốt. Đồng thời, đây cũng là kênh thông tin để ngành công an kịp thời phát hiện cán bộ, chiến sĩ công an có những vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống tùy vào những mức độ để có hình thức xử lý, thanh lọc làm cho ngành công an không ngừng lớn mạnh, tuyệt đối trong sạch, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Hồ Chí Minh yêu cầu công tác thi đua, khen thưởng và kỷ luật phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, đúng đắn, rõ ràng: Đây là một nguyên tắc quan trọng nhất, một yêu cầu mà công an phải luôn luôn giữ vững khi thực hiện thi đua - khen thưởng và kỷ luật.
Thi đua, khen thưởng, kỷ luật cần tiến hành thường xuyên, liên tục: Hồ Chí Minh nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác thi đua - khen thưởng và kỷ luật trong công an nhân dân nên đã yêu cầu: Công tác thi đua - khen thưởng, kỷ luật phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên, liên tục. Trong “Bài nói tại Đại hội chiến sĩ thi đua công an nhân dân vũ trang”, ngày 2-3-1962, Hồ Chí Minh đã căn dặn và nhấn mạnh: “phong trào thi đua phải làm bền bỉ, liên tục. Các chú có thi đua và có thành tích đấy, nhưng Bác dặn phải bền bỉ và liên tục”[43].
Thi đua - khen thưởng và kỷ luật phải có điều kiện: Hồ Chí Minh nói: “Bác sẽ tặng tổ chức của các chú một lá cờ luân lưu để thưởng đơn vị nào thi đua khá nhất. Thi đua phải có điều kiện, điều kiện như thế nào các chú thảo luận với nhau. Ví dụ như bắt được nhiều đặc vụ, biệt kích hay dân vận, tăng gia tốt... Bác sẽ ký tên vào lá cờ này và đơn vị nào giành được cờ thì được thêu tên vào đấy. Đơn vị nào được thêu tên 2, 3 lần thì quý hóa lắm”[44].
Thi đua - khen thưởng phải gắn liền với kỷ luật: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thi đua - khen thưởng phải gắn liền với công tác kỷ luật, hai nội dung này có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Thi đua - khen thưởng và kỷ luật đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu quả: Trước tình hình đất nước còn nghèo, đời sống nhân dân còn khó khăn, vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện thi đua - khen thưởng đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu quả; chú trọng hình thức khen thưởng bằng tinh thần, mang tính chất tượng trưng, động viên.
7. Xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ trong Công an nhân dân
Một trong những nội dung trong công tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ trong Công an nhân dân nói riêng được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đó là việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ.
Theo Hồ Chí Minh đội ngũ làm công tác cán bộ phải là người có tài và đức, phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, có năng lực đánh giá và sử dụng cán bộ hiệu quả, biết phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu của cán bộ. Phải thật sự gương mẫu, đi đầu trong mọi tình huống, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, chấp hành tốt mọi quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ. Không tư lợi riêng, lạm dụng quyền lực, chức trách nhiệm vụ để trù dập cán bộ, luân chuyển cán bộ trái với quy định.
Người làm công tác cán bộ theo Hồ Chí Minh phải luôn đặt việc công tâm, công minh lên hàng đầu, tuyệt đối không được thiên vị, sử dụng tình cảm cá nhân cảm tính trong việc đánh giá, sử dụng cán bộ.
Người làm công tác cán bộ phải là người có trí tuệ, tầm nhìn sâu, rộng, toàn diện để có khả năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước, lãnh đạo đề ra những chiến lược cán bộ đúng đắn, sâu sắc.
Đây cũng là những phẩm chất cần phải có đối với người làm công tác cán bộ trong lực lượng Công an nhân dân. Mà theo Hồ Chí Minh trước hết là đối với những người lãnh đạo, chỉ huy trong công an nhân dân. Bởi lẽ, người lãnh đạo, chỉ huy trong Công an nhân dân là những người trực tiếp chỉ đạo, tham gia vào mọi khâu của công tác cán bộ.
IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY
1. Quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng, Bộ Công an
Vận dụng và phát triển sáng tạo những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Đảng, Nhà nước ta và Bộ Công an đã có sự chỉ đạo và đề ra nhiều chủ trương, biện pháp về việc xây dựng người cán bộ công an và công tác cán bộ công an trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ.
Đánh giá tầm quan trọng đặc biệt của cán bộ, trong quá trình xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ CNH, HĐH đất nước Đảng ta đã khẳng định: Cán bộ quyết định sự thành bại của cách mạng; Gắn liền với vận mệnh của Đảng; Là khâu then chốt trong việc xây dựng Đảng.
Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp nhấn mạnh và làm rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”.
Xác định vai trò, tầm quan trọng của công tác cán bộ, những năm qua Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, quy định về công tác cán bộ. Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) “về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Bộ Chính trị khóa IX có Nghị quyết số 11-NQ/TW “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp” và Nghị quyết số 42-NQ/TW “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X có Kết luận số 37-KL/TW “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI có Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Quyết định số 244-QĐ/TW về ban hành “Quy chế Bầu cử trong Đảng”; Bộ Chính trị khóa XI có Kết luận số 24-KL/TW “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo” và Chỉ thị số 36-CT/TW “Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”,...
Cụ thể hóa các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định, quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương đã ban hành nhiều hướng dẫn để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng, trong đó có Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW, ngày 05-11-2012, “Công tác Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW, ngày 18-8-2014, “Công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”.
Quán triệt những quan điểm và sự chỉ đạo của của Đảng và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ, Bộ Công an đã chủ động xây dựng nhiều văn bản, chỉ thị quy định về tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ vào công an như: Quyết định số 666/1998/QĐ-BCA(X13) ngày 12/10/1998 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc ban hành quy định tuyển chọn cán bộ vào lực lượng Công an nhân dân. Quyết định số 627/2003/QĐ-BCA(X13) ngày 10/9/2003 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc sửa đổi đối tượng, tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ vào lực lượng Công an nhân dân. Thông tư 30/2009/TT-BCA quy định tuyển Công an nhân dân Thông tư 71/2011/TT-BCA quy định về tuyển sinh vào các trường Công an nhân dân. Nội dung các Quyết định, Thông tư này quy định hết sức đầy đủ, rõ ràng, toàn diện về các tiêu chuẩn chính trị, tư tưởng, đạo đức, lý lịch, trình độ học vấn, sức khỏe…của người được thi và tuyển dụng vào Công an nhân dân.
Về công tác cán bộ, thực hiện các nghị quyết của Đảng, quy định của Nhà nước, ngày 3-2-1998, Đảng ủy Công an Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/ĐU(VP) về công tác cán bộ của lực lượng Công an nhân dân (CAND) trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Nội dung của Nghị quyết đã tập trung đánh giá toàn diện về thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong lực lượng CAND. Đề ra phương hướng và những chủ trương, giải pháp lớn nhằm đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, làm nòng cốt cho công tác xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Trên cơ sở đánh giá kết quả hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), Đảng ủy Công an Trung ương đã ban hành Kế hoạch số 42-KH/ĐUCA(X11) ngày 29-10-2009 tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ trong lực lượng CAND đến năm 2020. Kế hoạch xác định các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và 9 giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ CAND một cách đồng bộ từ nâng cao nhận thức, kiện toàn, nâng cao hiệu quả của tổ chức bộ máy các cấp, đến việc tổ chức thực hiện có hệ thống, cụ thể các khâu trong công tác cán bộ…
Việc đảm bảo biên chế trong Ngành Công an đã được quy định cụ thể trong Nghị định số 43/2007/NĐ-CP ngày 26/3/2007 theo đó, hàng năm Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tổng biên chế của Công an nhân dân. Các đối tượng được tính biên chế cũng dần được điều chỉnh phù hợp, hiện nay chỉ bao gồm sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân Công an và học viên trong các trường Công an nhân dân - theo quy định trước đây bao gồm cả số chiến sĩ nghĩa vụ và lao động hợp đồng.
2. Những kết quả đạt được và hạn chế
a. Kết quả
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Công tác cán bộ trong Công an nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bộ Công an trong những năm qua đã có những chuyển biến tích cực và rõ nét:
+ Các quy trình công tác cán bộ được gắn với việc kiện toàn, nâng cao hiệu lực của bộ máy, góp phần chuẩn hóa các quy trình, quy chế, đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý điều hành. Công tác cán bộ luôn bám sát nhiệm vụ chính trị và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ; dân chủ, công khai trong công tác cán bộ được mở rộng.
+ Đã triển khai tương đối đồng bộ, có hiệu quả các nội dung công tác cán bộ; việc tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, nhận xét, đánh giá, bố trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý và thực hiện chính sách cán bộ đã dần đi vào nền nếp, tạo sự thống nhất trong thực hiện; vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu trong công tác cán bộ được nâng cao.
+ Đội ngũ cán bộ, chiến sỹ CAND đã có bước trưởng thành rõ rệt, số lượng và chất lượng được nâng lên, cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong lĩnh vực bảo vệ an ninh, trật tự.
+ Tuyệt đại đa số đội ngũ cán bộ, chiến sỹ CAND luôn thể hiện rõ lập trường cách mạng kiên định, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân; giữ gìn và phát huy được phẩm chất tốt đẹp của người chiến sỹ CAND tận tụy trong công tác, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
+ Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy công an các cấp được xây dựng, rèn luyện trong thực tiễn công tác, chiến đấu; năng lực lãnh đạo, chỉ huy từng bước thích ứng trước những diễn biến phức tạp của tình hình; có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, hoạt động có hiệu quả.
+ Công tác cán bộ đã thực sự góp phần xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
b. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác cán bộ còn bộc lộ những bất cập, hạn chế: Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục. Chậm đổi mới phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Thiếu cơ chế để phát huy dân chủ, sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém, trì trệ. Chậm xây dựng, hoàn thiện cơ chế giám sát trong Đảng và trong hệ thống chính trị, giám sát của nhân dân đối với cán bộ các cấp và công tác cán bộ.
Chưa có chính sách để thu hút và trọng dụng nhân tài. Tình trạng “chạy” chức, “chạy” quyền, “chạy” bằng cấp, huân chương chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, lúng túng, nhất là đối với những vấn đề chính trị hiện nay. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa quan tâm đúng mức đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ, một số nơi phiến diện, thiếu chặt chẽ.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chưa quán triệt đầy đủ quan điểm công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng đảng. Việc quán triệt, triển khai các văn bản về công tác cán bộ chưa đồng đều, chỉ đạo tổ chức thực hiện còn chậm và lúng túng.
Phương pháp, quy trình đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ nhiều điểm còn chưa khoa học, hợp lý. Việc bố trí, sử dụng cán bộ mới chú ý đến yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, chưa quan tâm đào tạo cán bộ cho lâu dài. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu chưa được quan tâm đúng mức. Luân chuyển cán bộ chưa khắc phục được tình trạng cục bộ, khép kín ở một số ngành, địa phương. Chủ trương luân chuyển bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý không là người địa phương chưa được thực hiện nghiêm túc. Chưa quyết liệt trong việc miễn nhiệm, thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực, để công việc trì trệ, mất uy tín. Công tác nghiên cứu, tham mưu ban hành chính sách cán bộ còn thiếu đồng bộ, chưa theo kịp với thực tế. Nhiều vấn đề bất hợp lý trong công tác cán bộ không còn phù hợp nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Đội ngũ cán bộ xét cả về số lượng, chất lượng còn một số mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự trong thời đại mới. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, thoái hoá, biến chất, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, xử lý kịp thời.
Công tác tuyển sinh tuyển dụng chưa đúng với yêu cầu thực tiễn dẫn đến mất cân đối về giới tính, thành phần. Cơ cấu đội ngũ cán bộ vẫn mất cân đối, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý. Tỷ lệ cán bộ trẻ, nữ, người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân chưa đạt yêu cầu. Tuổi trung bình của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp vẫn còn cao...
Công tác tuyển dụng, bố trí cán bộ có những lúc, những nơi còn cảm tính, chưa có quy định rõ ràng, đầy đủ, cho nên dẫn đến tình trạng tuyển dụng cán bộ không đủ năng lực, trình độ.
Chiến lược cán bộ có những lúc, những thời điểm còn chưa hợp lý, khoa học dẫn đến việc xuất hiện “khoảng trống” thế hệ cán bộ kế cận.
Công tác xác minh trong quá trình tuyển dụng cán bộ còn có những bất cập, hạn chế, chưa đúng quy trình, thủ tục dẫn đến có sự việc tuyển dụng cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn, thậm chí là đối tượng truy nã, phản động.
Công tác quản lý cán bộ còn có nơi, có lúc còn lỏng lẻo dẫn đến vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật ngành.
Hiện tượng sử dụng nhân lực trái với năng lực, sở trường hay nhận thức về công tác luân chuyển cán bộ theo quy định của Đảng có những nơi, có những lúc chưa đúng dẫn đến việc sử dụng cán bộ trái với năng lực, sở trường, chuyên môn, nghiệp vụ dẫn tới hiệu quả công tác không cao.
Bên cạnh đó chưa có biện pháp, cách thức khuyến khích cán bộ phát huy hết vai trò, năng lực của mình hoặc tình trạng sử dụng cán bộ không đúng với mục đích, năng lực chuyên môn dẫn đến tình trạng lãng phí nhân lực…
- Nhiều đơn vị biên chế tăng không phải vì yêu cầu nhiệm vụ mà do thực hiện chính sách con, em, đối ngoại, nhất là ở các lĩnh vực công tác nhạy cảm. Năng lực của một bộ phận cán bộ yếu, không theo kịp yêu cầu nhiệm vụ, nên phải lấy số lượng thay cho chất lượng, tình trạng này không đến mức phổ biến, nhưng ở đơn vị, địa phương nào ít nhiều cũng có mà không thể điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu hoặc giải quyết đầu ra. Bên cạnh đó, việc bố trí, sử dụng cán bộ ở nhiều nơi không hợp lý, chồng chéo trong phân công, cắt khúc công việc làm tăng biên chế không cần thiết.
+ Số lượng cán bộ có trình độ, năng lực còn thấp, biên chế tăng với số lượng lớn, nhưng trình độ đội ngũ, đặc biệt là trình độ cao đẳng, đại học trở lên về nghiệp vụ công an chưa có sự gia tăng tương ứng. Hiện nay, số lượng cán bộ công an có trình độ cao đẳng, đại học trở lên về nghiệp vụ công an mới đạt khoảng 30%, thấp hơn so với mục tiêu phát triển đề ra đến năm 2015 là 50%. Đáng chú ý trong đó có một số địa phương tỉ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên về nghiệp vụ công an còn rất thấp dưới 20%. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế chất lượng lượng công tác nghiệp vụ.
+ Tỉ lệ tuổi của cán bộ mất cân đối, số cán bộ có độ tuổi dưới 30 chiến tỷ lệ khá cao khoảng 46,80%, nhưng phần đông trong đó là trình độ trung cấp hoặc chưa được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ đặt ra “áp lực” trong đảm bảo biên chế công tác thường xuyên và đào tạo nâng cao trình độ.
+ Tỷ lệ cán bộ nữ hiện chiếm khoảng 14% biên chế là cơ bản phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực của ngành đến năm 2020, nhưng ở một số đơn vị, địa phương tỷ lệ này còn chưa hợp lý. Số lượng cán bộ người dân tộc thiểu số bố trí ở vùng dân tộc thiểu số chưa phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và chưa đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa các thành phần dân tộc.
+ Tỉ lệ cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo chỉ huy các cấp tại Công an địa phương hiện nay tương đối cao. Qua công tác quản lý cán bộ và nắm tình hình chung cho thấy, lãnh đạo, chỉ huy từ Phó Đội trưởng, Phó Trưởng Công an phường trở lên có xu hướng “thoát ly” công việc thực tế chỉ tập trung vào chủ trương, chỉ đạo chung chung, ký duyệt văn bản…, ít trực tiếp đảm nhiệm những công việc cụ thể. Việc triển khai các Đội ở một số địa phương có biểu hiện “nghiêng nhiều về chính sách cán bộ hơn là xuất phát từ đòi hỏi của nhiệm vụ và khi đã triển khai tổ chức rồi thì lại xuất hiện về biên chế, quân số cho tương xứng với tổ chức”.
3. Biện pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ trong Công an nhân dân
- Cấp ủy và chỉ huy công an các cấp phải xác định xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng CAND là công tác trọng tâm, then chốt trong thực hiện nhiệm vụ chính trị.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với Công tác công an nói chung và đối với công tác cán bộ nói riêng. Đây là một trong những công tác trọng tâm là cơ sở, điều kiện để công tác xây dựng cán bộ và công tác cán bộ trong thời gian tới thật sự có hiệu quả.
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tổ chức thực hiện tốt các giải pháp quản lý, bố trí, sử dụng biên chế theo kế hoạch của Bộ Công an; thực hiện cải cách hành chính trong công tác cán bộ - cán bộ.
- Xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy chế tuyển dụng, sử dụng, bố trí cán bộ một cách hợp lý, khoa học trong thời gian tới. Đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ. Đổi mới quan điểm, phương pháp, quy trình đánh giá cán bộ. Bảo đảm đánh giá công khai, minh bạch, trung thực, khách quan, toàn diện, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ và uy tín trong cơ quan, đơn vị làm thước đo chủ yếu. Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ. Đối với cán bộ diện quy hoạch lâu dài, cần lựa chọn nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch là những người ưu tú trong công nhân và những người lao động, công chức trẻ, sinh viên xuất sắc đã tốt nghiệp, trong lực lượng vũ trang. Định kỳ lựa chọn bổ sung cán bộ đủ tiêu chuẩn, có triển vọng đưa vào quy hoạch. Xây dựng, cụ thể hoá tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, ngành làm cơ sở cho việc phát hiện, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng cán bộ. Tiếp tục thực hiện luân chuyển cán bộ, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động của các cấp, ngành và nhân dân về luân chuyển cán bộ. Thực hiện luân chuyển trên cơ sở quy hoạch cán bộ. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa luân chuyển, điều động và tăng cường cán bộ. Kết hợp hài hòa giữa luân chuyển với ổn định đội ngũ cán bộ. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với cán bộ luân chuyển, tạo điều kiện để cán bộ luân chuyển hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tăng cường quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng: Đổi mới cách dạy, cách học; phát huy tính tích cực của học viên, cập nhật và vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng theo các tiêu chuẩn chức danh... Đổi mới, hoàn thiện chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần phù hợp từng loại cán bộ để họ an tâm công tác, tận tâm với công việc; có chính sách, quy chế tôn vinh những người có đức, có tài, có tâm huyết; phát huy, sử dụng tốt tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức và tầng lớp doanh nhân không phân biệt là đảng viên hay người ngoài Đảng.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ cao về lý luận khoa học, nghiệp vụ công an, khoa học - kỹ thuật - công nghệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Tập trung xây dựng đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy công an các cấp thật sự xuất sắc, tiêu biểu về năng lực, trình độ, trí tuệ, phẩm chất đạo đức, lối sống, là tấm gương để cán bộ, chiến sĩ học tập, noi theo; đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ, nhất là thực hiện luân chuyển đối với số cán bộ trẻ có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín để chủ động chuẩn bị về nhân sự cho đại hội đảng bộ các cấp trong lực lượng CAND nhiệm kỳ tới.
- Cấp ủy và cơ quan tổ chức - cán bộ các cấp phải kịp thời quán triệt các quy định, hướng dẫn mới của Trung ương, bám sát yêu cầu nhiệm vụ để kịp thời xây dựng, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hệ thống quy trình, quy chế, kế hoạch về công tác cán bộ thật sự khoa học và tổ chức thực hiện nghiêm túc.
- Tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức, cán bộ; kiên quyết đưa ra khỏi cơ quan làm công tác tổ chức - cán bộ những người có phẩm chất đạo đức, năng lực yếu, không gương mẫu, vi phạm kỷ luật; lựa chọn những cán bộ trung thực, tâm huyết với công việc, có trình độ và có tư duy đổi mới, phong cách làm việc dân chủ, sâu sát, khoa học để bố trí làm công tác tổ chức - cán bộ.
CÂU HỎI ÔN TẬP, KIỂM TRA
Câu 1: Làm rõ những luận điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong Công an nhân dân?
Câu 2: Làm rõ mối quan hệ và tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ trong Công an nhân dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh?
Câu 3: Phân tích những yêu cầu cần phải có đối với người cán bộ công an. Liên hệ đối với bản thân?
Câu 4: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ trong Công an nhân dân trong thời gian tới?
Câu 5: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ. Đảng ta và Bộ Công an đã vận dụng tư tưởng này như thế nào trong việc xây dựng người cán bộ công an trong thời đại mới?
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tô Lâm (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Tô Lâm (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân - Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Tô Lâm (2015), 125 câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Cao Sơn – Nguyễn Việt Hùng (đồng chủ biên) (2016): Vận dụng một số nội dung khoa học chính trị trong công tác công an (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. http://tutuonghochiminhc500.blogspot.com/2016/03/sua-oi-loi-lam-viec-trich-phan-iv-van-e.html
5. http://tutuonghochiminhc500.blogspot.com/2016/03/sua-oi-loi-lam-viec-trich-phan-iv-van-e.html
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.309.
[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.313.
[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.265.
[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.314.
[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.315.
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.309.
[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.309.
[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.314.
[9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.68.
[10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.313.
[11]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.498.
[12]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.250.
[13]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.498.
[14]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.499.
[15]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.260.
[16]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.249.
[17]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.599.
[18]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.155.
[19]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.259.
[20]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.313.
[21]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.270.
[22]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.83.
[23]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.599.
[24]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.599.
[25]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.312.
[26]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.270.
[27]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.599.
[28]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.259.
[29]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.259.
[30]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.250.
[31]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.249.
[32]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.221.
[33]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.11, tr.248.
[34]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.6, tr.312.
[35]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.11, tr.248.
[36]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.5, tr.309.
[37]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.5, tr.309, 310.
[38]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.12, tr.155.
[39]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.12, tr.155.
[40]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.5, tr.499.
[41]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.6, tr.312.
[42]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.13, tr.351.
[43]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.13, tr.351.
[44]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.13, tr.352.
0 Nhận xét